THPT Nguyễn Huệ

Chào mừng bạn đến với forum teennguyenhue.tk. Bạn có thể đăng nhập để viết bài hoặc đăng kí nếu chưa có tài khoản. Thanks

Join the forum, it's quick and easy

THPT Nguyễn Huệ

Chào mừng bạn đến với forum teennguyenhue.tk. Bạn có thể đăng nhập để viết bài hoặc đăng kí nếu chưa có tài khoản. Thanks

THPT Nguyễn Huệ

Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

THPT Nguyễn Huệ


3 posters

    bai van chuan bi viet ne 5/3/2010

    bboykid_1213111
    bboykid_1213111
    Nghiệp dư


    Tổng số bài gửi : 59
    Reputation : 0
    Join date : 27/01/2010
    Age : 30
    Đến từ : lớp 11b10 trường THPT Nguyễn Huệ

    bai van chuan bi viet ne 5/3/2010 Empty bai van chuan bi viet ne 5/3/2010

    Bài gửi by bboykid_1213111 Fri Mar 05, 2010 5:28 am

    1. Định nghĩa thế nào là lối học đối phó, qua loa:
    Trích từ: www.VanMau.Com
    Đó chính là lối học gạo, học chỉ để thuộc bài, học để lấy điểm chứ không lấy kiến thức. Tệ hại hơn là việc học qua loa, khi những kiến thức được cung cấp trên nhà trường chỉ được học một cách đại khái, không có mục đích, mục tiêu rõ ràng ...
    Trích từ: www.VanMau.Com

    Trích từ: www.VanMau.Com
    2. Đặc điểm của việc học đối phó, qua loa:
    Trích từ: www.VanMau.Com
    - Học trước, quên sau
    Trích từ: www.VanMau.Com
    - Học 1 chỉ biết 1, không liên hệ được kiến thức trước và sau đó. Nghĩa là kiến thức được học không có sự liên kết một cách hệ thống.
    Trích từ: www.VanMau.Com
    - Học không có tính chất thực tiễn, không liên hệ để phục vụ cho việc xây dựng kỹ năng cho bản thân
    Trích từ: www.VanMau.Com
    - Học qua loa, đối phó còn thể hiện rất rõ ở việc: Không gây hứng thú trong quá trình học, sinh ra tâm lí chán nản thậm chí là sợ hãi mỗi khi nhắc đến
    Trích từ: www.VanMau.Com
    ...
    Trích từ: www.VanMau.Com

    Trích từ: www.VanMau.Com
    3. Tác hại của việc học qua loa, đối phó:
    Trích từ: www.VanMau.Com
    Khiến học sinh chúng ta không có đủ hành trang kiến thức cho cuộc sống sau khi rời ghế nhà trường...
    Trích từ: www.VanMau.Com

    Trích từ: www.VanMau.Com
    4. Học thế nào mới không phải là qua loa, đại khái?
    Trích từ: www.VanMau.Com
    ”Học để biết , học để làm , học để chung sống, học để tự khẳng định mình"
    Trích từ: www.VanMau.Com
    >>> Chỉ khi xác định được mục đích của việc học thì chúng ta mới không học qua loa và đối phó. Muốn vậy:
    Trích từ: www.VanMau.Com
    - Học mọi lúc mọi nơi
    Trích từ: www.VanMau.Com
    - Học từ mọi tình huống trong cuộc sống
    Trích từ: www.VanMau.Com
    - Học bằng nhiều phương tiện: Qua đài, báo, ti vi, các website trực tuyến
    Trích từ: www.VanMau.Com
    - Học thầy, học bạn...
    Trích từ: www.VanMau.Com

    Trích từ: www.VanMau.Com
    5. Bài học cho bản thân: Cái này tự rút ra nhé
    Trích từ: www.VanMau.Com

    Trích từ: www.VanMau.Com
    --------------------------------------------------------------------------------
    Trích từ: www.VanMau.Com

    Trích từ: www.VanMau.Com
    Ngày nay, được đến trường đi học là niềm hạnh phúc của nhiều bạn, là ước mơ lớn lao của những bạn không có đủ điều kiện để cắp sách đến trường. Thế nhưng, bên cạnh đó, có một số bạn có điều kiện thì lại không lo học hành, ham chơi, học qua loa, đối phó. Đáng buồn thay, hiện tượng đó đã trở nên phổ biến trong học sinh.
    Trích từ: www.VanMau.Com
    Những học sinh lười học, học qua loa, đối phó ất dễ nhận ra qua những biểu hiện như ngại học, lúc nào cũng lẩn trốn, tìm mọi lý lẽ để biện minh cho việc lười học của mình, biếng nhác, ham chơi. Họ quan niệm rằng, học cho ba mẹ vui, đến trường cho có bạn, nên họ không hề chủ động trong việc học. Học không đến nơi đến chốn, học đầu quên đuôi. Học lúc ấy để trả bài, đối phó với sự kiểm tra của thầy cô, cha mẹ nên bài cũ không nhớ lâu, một thời gian ngắn sẽ quên ngay. Ngay cả trong lớp, những học sinh học có lối học như trên cũng ngồi học một cách chán nán, hoặc không tập trung vào bài học, làm việc riêng, giả vờ ghi ghi chép chép, ngoan hiền để qua mặt thầy cô. Đến khi bị nhắc nhở thì tỏ ra chú ý rồi đâu lại vào đấy. Đối với bài tập ở nhà, họ không bao giờ chịu suy nghĩ để làm, mà chỉ toàn chép trong sách giải, sách học tốt hoặc lên lớp mượn vở bạn chép lại. Táo bạo hơn, nhiều học sinh còn trả tiền cho bạn để làm bài hộ mình.
    Trích từ: www.VanMau.Com
    Việc học qua loa đối phó này gây những tác hại ghê ghớm, cho chính bản thân người học sinh ấy, cho gia đình và xã hội. Bởi lối học bị động như trên, nên kiến thức nắm lơ mơ, nông cạn, hời hợt, phiến diện, mất kiến thức cơ bản, vì vậy đầu óc rỗng tuếch. Đó là nguyên nhân gây nên sự tụt dốc nghiêm trọng trong việc học. Những học sinh đã sút học thường ít khi có ý chí cầu tiến mà hầu như dễ chán nản, bi quan, nghĩ rằng mình không còn đủ sức học nữa đâm ra không còn sự say mê, hào hứng torng học tập dần dần bỏ bê luôn việc học. Nặng hơn nữa là bỏ học do xấu hổ, thiếu niềm tin. Mà những người thất học thì tương lai sẽ không mấy tốt đẹp, không có nghề nghiệp ổn định. Thật tai hại khôn lường. Một khi đã không tập trung vào việc học, “nhành cư vi bất thiện”, họ rất dễ bị kẻ xấu rủ rê, lôi kéo vào con đường phạm pháp, tệ nạn xã hội, cuộc đời càng ngày càng đi vào ngõ cụt.
    Trích từ: www.VanMau.Com
    Không những gây hại cho chính bản thân họ mà còn liên lụy tới mọi người trong gia đình. Vừa tốn kém tiền bạc thuê gia sư đến dạy, vừa phải đóng phí cho những năm bị lưu ban mà không thu được kết quả tốt. Những bậc cha mẹ có con em mình bị như vậy thì vô cùng đau khổ, xấu hổ trước bạn bè, vì liên tục bị GVCN mời gặp. Thử hỏi họ còn an tâm công tác, làm việc khi con họ hư hỏng, ăn chơi…
    Trích từ: www.VanMau.Com
    Còn đối với xã hội, những người như vậy là gánh nặng cho xã hội về nhiều mặt: kinh tế tư tưởng, đạo đức, lối sống. Việc học qua loa, đối phó sẽ tạo ra những con người không có tri thức, bất tài, vô dụng trong khi đất nước ta đang trên đà phát triển, rất cần những người tài giỏi, ra sức giúp nước. Một vấn đề đang nhức nhối hiện nay là tệ nạn xã hội nước ta ngày càng gia tăng do những người vô công rỗi nghề gây nê. Mới đây là những vụ bằng cấp giả, “tiến sĩ giấy” đã bị báo chí đưa lên. Họ không học hành đến nơi đến chốn nhưng lại muốn có tiền, được tăng lươn, thăng cấp, vì vậy xảy ra một số trường hợp thừa bằng cấp, thiếu năng lực
    Trích từ: www.VanMau.Com
    Đây quả là một hiện tượng rất đáng chê trách. Vậy làm thế nào để khắc phục được hiện trạng này? Bản thân ở mỗi người cần ý thức và tự giác trong học tập: học cho mình, học để lấy kiến thức, để phát triển nhân cách, tâm hồn, có tương lai sáng lạn và để xây dựng đất nước. Nhưng phản học như thế nào?? Học ở thầy, ở bạn, những người xung quanh mình và ngoài xã hội. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao hiểu biết. Quan trọng nhất là xác định đung đắn, mục tiêu, lí tưởng, động cơ, nhiệmvụ học tập một cách nghiêm túc, đúng đắn.Học tập thật hết mình để đạt kết cao và thường xuyên rèn luyện nhân cách
    Trích từ: www.VanMau.Com
    Học vấn là con đường duy dấn đi đến tương lại. Chúng ta hãy cố gắng học tập để tự khẳng định , tự tìm chỗ đứng của mình trong xã hội, hơn thế nữa là tự nuôi sống bản thân và gia đình, không biến mình thành gánh nặng cho xã hội.
    ok doc di nha Cool Sad



    day nua ne cac ban


    Hĩ........Có bạn nào làm đề 3 trong phẩn nghị luận xã hội chưa.Giúp mình làm bài này với.Mình chẳng biết viết gì cả?..
    Đề bài :Hãy phát biểu ý kiến của mình về mục đích học tập do UNESCO đề xướng :"Học để biết.học để làm,học để chung sống .học để tự khẳng định mình " Mong các bạ giúp mình nhanh nah'..mình sắp phải nộp bài rùi:34::62:

    --------------------------------------------------------------------------------

    ngocanh12308-27-2009, 09:27 PM
    "Học để làm gì?" là một câu hỏi không mới, nó cũ kĩ như bản thân sự học vậy. Là câu hỏi "thường trực" của mọi thời học!

    Cũng cần khẳng định ngay rằng, khi lần đầu cắp sách đến trường, và nhiều năm sau đó, các em học sinh đâu đã có chút khái niệm gì về vấn đề này; mà chỉ thụ động vâng theo sự chỉ bảo của người lớn, của cha mẹ mà thôi!...



    Chỉ khi thật sự lớn lên, nhiều em mới dần nhận thức ra điều đó. Cho nên câu cửa miệng của các bậc phụ huynh đối với con em là: "không chịu khó học, lớn lên chỉ có đi ăn mày!". Câu ấy và những câu tương tự đã hình thành dần trong bộ não của trẻ khái niệm "học để làm gì?". Vâng, "học để lớn lên không phải đi ăn mày, ăn xin!". Bởi "ăn mày, ăn xin" thì khổ như thế nào, các em nhìn thấy hàng ngày rồi!
    ậy, dù có "cao đạo" đến đâu, dù vô tình hay hữu ý, thì thực ra người lớn đã sớm định hướng cho con trẻ "mục tiêu" thực chất của sự học là gì rồi. Mục tiêu đó không sai, nhất là trong thời buổi "thực dụng" này. Nhưng sai ở chỗ, người ta cứ nói với các em: "Học để có kiến thức, để càng ngày càng có nhiều kiến thức". Ý là "học không vì tấm bằng"; Cần "thực học" chứ không cần "bằng cấp"! Thương thay các em, nếu các em mà không có bằng cấp, thì các em vào đời sao đây?



    Về điểm này, tôi xin kể một chuyện, có lần con gái tôi đã bí trước câu hỏi của cậu con trai, khi cứ than vãn về kết quả học tập của nó: "Thế mẹ muốn con có điểm cao, hay muốn con có kiến thức?"! Chết chưa? Còn tuổi học trò mà lại không lấy điểm làm mục tiêu, thì làm sao mỗi năm lên một lớp đây; làm sao thi đỗ đại học đây?



    Không chỉ nhà trường, gia đình, mà ngay những nhà tuyển dụng lao động cũng thường tuyên bố (rất hay!): "chúng tôi cần người thực sự có kiến thức, chứ không cần người có bằng cấp"! Nhưng thực tế thì hồ sơ hàng đầu nộp cho cơ quan tuyển dụng, nhất định phải là cái bằng, theo đúng nghĩa đen! Càng nhiều bằng, càng thuận lợi khi xét tuyển. Kiến thức vẫn cứ phải đứng sau bằng cấp!



    Nhưng nếu định hướng mục tiêu sự học là tấm bằng, thì sẽ lại dẫn đến một kết cục còn bi đát hơn! Thực tế đã có không ít trường hợp, học chỉ để đối phó với thi cử mà thôi. Vậy là tình trạng "xin điểm", "mua điểm" không thể không xẩy ra, không thể không phát triển. Còn bé thì cha mẹ "mua điểm" cho, lớn lên, tự mua lấy. Học "tại chức", học "hàm thụ" bản thân nó không xấu; nhưng càng ngày nó càng tiêu cực, chính vì mục tiêu chính của thứ học này là để có "bằng"; bởi có bằng mới có cơ hội "phấn đấu" lên chức này chức nọ, lên "ông nọ, bà kia"!



    Đã có nhiều phụ huynh (nhất là những vị có chức sắc), khi con em mình học kém, không thi được vào đại học, thì dùng cách này, cách khác, "đưa" trẻ vào cơ quan nhà nước; làm tạm một công việc gì đó, rồi cho đi "hàm thụ". Mấy năm sau, có bằng cấp, sẽ chạy "ghế" tiếp! Thế cho nên một số cơ quan công quyền (đặc biệt ở cấp địa phương), chất lượng cán bộ - không dám vơ đũa cả nắm đâu, nhưng phải thừa nhận rằng: nhiều người rất kém cả về chuyên môn nghiệp vụ lẫn phép ứng xử; làm ảnh hường lớn tới công cuộc cái cách hành chính của Nhà nước!



    Tôi lại xin kể chuyện này: Lần ấy, tôi đến chính quyền Phường xin chứng nhận vào đơn làm thẻ thư viện Tỉnh. Đơn đã được Tổ trường dân phố và Tổ trưởng lương hưu ký xác nhận và đề nghị theo đúng yêu cầu của cơ quan thư viện. Anh cán bộ văn phòng sau khi xem đã thảo nội dung chứng thực,; nhưng khi đưa lên chủ tịch, chủ tịch không ký, với lý do: chủ tịch phường không ký những chứng nhận như thế này! Tôi nói: giá cái thư viện này trực thuộc Phường ta, chủ tịch nói thế thì mừng quá! Nhưng đây lại là thư viện Tỉnh, họ làm theo quy định đã được chính quyền Tỉnh duyệt y; Phường thấy bất hợp lý thì phường báo cáo đề nghị lên Tỉnh, chứ Phường không có quyền bác bỏ! Anh văn phòng nhận ra lẽ phải, nhưng có lẽ... ngại "Sếp", nên dung hòa: "thôi cụ để khi khác, chủ tịch ... đang bận họp"!



    Kiến thức và bằng cấp cái nào cần hơn? Câu trả lời dễ nhất có lẽ là "cần cả hai"! Nhưng nếu lại hỏi: cái nào cần trước? thì nhiều khi cũng khó khẳng định. Vậy đấy! Định hướng "mục tiêu của sự học" như thế nào cho đúng Mong rằng các nhà giáo dục, các bậc cha mẹ cũng như các em học sinh, hãy thực sự quan tâm!..
    Theo dantri.vn
    Một đất nước muốn có những bước phát triển nhảy vọt thì đầu tư để phát triển con người cần được xem là loại đầu tư có giá trị hàng đầu, trong đó đầu tư cho giáo dục là loại đầu tư có tầm chiến lược.

    Nói đến xã hội hoá giáo dục đại học chúng ta phải xét đến con số sinh viên đại học trên tổng số dân. Theo thống kê đối chiếu do ông Hồ Anh Tuấn cung cấp (bàn tròn do TBKTSG tổ chức vào ngày 14-5-1999) thì ở Việt Nam hiện nay tỷ lệ đó là 32 sinh viên trên 10.000 dân. Trong khi đó con số tương đương ở Thái Lan và Hàn Quốc đông hơn ở Việt Nam từ 8 đến 12 lần. Xem thế ta cần phải phát triển mạng lưới các trường đại học, công lập cũng như dân lập, mới mong theo kịp các nước chung quanh về mặt giáo dục đại học.

    Chỉ mới đối chiếu con số sinh viên theo học đại học ở Việt Nam và ở hai nước châu Á ta thấy thua họ quá xa. Tại sao lại có tình trạng như vậy?

    Khó khăn cho việc xã hội hoá giáo dục đại học ở nước ta nằm ở khâu tuyển sinh đại học, không phải đậu xong tú tài học sinh nào cũng đều được đi học đại học. Nếu đậu tú ở các tỉnh thì các em phải tập trung về các thành phố để thi tuyển vào đại học. Sĩ số dự thi để được tuyển vào một trường đại học nào đó, công lập hay dân lập, thường phải chọi từ năm đến 12 sinh viên để chọn một. Rõ ràng đây là một rào cản rất khốc liệt cho các cô chiêu cậu tú của ngày hôm nay, khác với những năm 1950, cứ ai đậu được tú tài thì con đường học lên đại học, đỗ cử nhân, bác sĩ, kỹ sư được rộng mở.

    Với một rào cản rất gay gắt như thế mà đầu tư cho giáo dục đại học công lập và dẫn lập cũng đòi hỏi một số tiền khổng lồ. Chính vì vậy Nhà nước không nên và không thể ôm cả trách nhiệm đầu tư này cho riêng mình vì ngân sách còn phải chi cho nhiều chuyện khác. Nhà nước nên để cho người Việt ở trong nước và nước ngoài, thậm chí cả cộng đồng người nước ngoài cùng chia sẻ trách nhiệm đầu tư này miễn là không đi ngược lại với mục tiêu Nhà nước đề ra.

    Lại xin nói về đầu ra. Nền giáo dục đại học của Việt Nam muốn có hiệu quả thì phải có chương trình đào tạo có chất lượng ngày một cao, nhưng chất lượng này do ai đặt ra? Chúng ta thường quên là sản phẩm mà đại học đào tạo - nghĩa là số sinh viên theo học cấp đại học - không phải là để cho đại học sử dụng mà là để cho xã hội nói chung sử dụng. Thế mà đại học không hề để ý đến phản ứng của xã hội đối với sản phẩm mà mình đào tạo. Ở các nước chung quanh ta, các hiệp hội ngành nghề chuyên môn như hội ngành xây dựng, quản trị, kế toán... đều có góp ý với các trường đại học về chương trình giảng dạy các bộ môn này ở đại học sao cho phù hợp với tình hình thực tế ngoài xã hội. Chương trình giảng dạy được thay đổi như thế nào để cho sinh viên khi ra trường không thấy ngỡ ngành về ngành mà mình định xin vào. Ngành giáo dục không còn ở trong tháp ngà xa rời với thực tế.

    Chúng ta cũng có tiến hành đánh giá chất lượng đào tạo ở đại học, nhưng đánh giá nó từ góc độ của người làm giáo dục, người dạy ở đại học chứ chưa làm như các nước khác. Ngay như ở Nhật, người ta đòi hỏi một sinh viên tốt nghiệp ở nước ngoài phải theo học một khoá học của ngành nào đó tại một trường đại học Nhật trong một thời gian từ sau tháng đến một năm trước khi đi làm ở một hãng Nhật trong nước. Rõ ràng nền giáo dục đại học ở Nhật là một mắt xích trong quá trình nhất thể hoá từ giáo dục đào tạo đến sản xuất kinh doanh. Tôi đồng ý chất lượng đào tạo là quan trọng nhưng tôi cho rằng không phải chỉ có ngành giáo dục đánh giá chất lượng đó mà phải có sự đồng đánh giá của các ngành nghề chuyên môn khác trong xã hội vì họ là người trực tiếp sử dụng sản phẩm.

    Nhận xét của tôi ở đây có liên quan đến mục tiêu giáo dục đại học. Cách giảng dạy tại địa học của chúng ta hiện nay là dạy cho sinh viên học để biết. Có nghĩa là dạy chuyên về lý thuyết mà ít có thực hành, ít có đi thực tế để tìm hiểu cách mà khu vực sản xuất và kinh doanh đang làm hiện nay. Còn cách dạy ở các nước khác là dạy sinh viên học để biết làm, có nghĩa là chương trình giảng dạy phải kết hợp lý thuyết và thực tế sản xuất kinh doanh hiện có trong xã hội, xuất phát từ việc ứng dụng lý thuyết đó vào thực tế. Từ biết đến làm còn một khoảng cách rất xa.

    Nhưng có phải là ngành giáo dục của ta không biết được điều đó ? Thưa có biết. Biết tại sao không làm? Có nhiều vấn đề ở đây.

    Theo chúng tôi, để có được một chương trình đào tạo thích hợp cho từng ngành nghề chuyên môn thì phải có sự phối hợp chặt chẽ và đầy hiểu biết giữa ngành giáo dục và ngành chuyên môn nào đó. Muốn có được sự hiểu biết đó thì 2 ngành phải có những chuyên gia hiểu biết rõ chuyên môn, hiểu biết rõ những nguyên tắc sư phạm, hiểu rõ những điều cần biết về ngành đó và nhu cầu về nhân sự của ngành đó. Hiện nay, ở Việt Nam chưa có thể có sự phối hợp như vừa nói. Bước kế tiếp sau khi lên được chương trình giảng dạy này lại còn đòi hỏi một sự phối hợp chặt chẽ giữa trường đại học và các cơ sở sản xuất kinh doanh. Ở nước ta hiện nay chưa có được sự phối hợp như vậy vì hai bên chưa hiểu nhau.
    Nhưng theo thiển ý, thì việc chuyển đổi mục tiêu của giáo dục đại học từ học để biết sang học để biết làm là một điều cần thực hiện ngay từ bây giờ nếu chúng ta muốn các sinh viên của chúng ta trong thời gian tới có thể sánh vai với sinh viên của các nước khác.



    xem nha ok Cool Cool Cool
    0kj_h0c_sjnh_B7
    0kj_h0c_sjnh_B7
    Chuyên nghiệp


    Tổng số bài gửi : 30
    Reputation : 0
    Join date : 02/02/2010
    Age : 30
    Đến từ : Nhà người yêu

    bai van chuan bi viet ne 5/3/2010 Empty Re: bai van chuan bi viet ne 5/3/2010

    Bài gửi by 0kj_h0c_sjnh_B7 Sat Mar 06, 2010 2:14 am

    Smile Smile chưa đọc nhưng đúng cái đang tìm tk bạn nhiều
    bboykid_1213111
    bboykid_1213111
    Nghiệp dư


    Tổng số bài gửi : 59
    Reputation : 0
    Join date : 27/01/2010
    Age : 30
    Đến từ : lớp 11b10 trường THPT Nguyễn Huệ

    bai van chuan bi viet ne 5/3/2010 Empty zay ah

    Bài gửi by bboykid_1213111 Sun Mar 07, 2010 12:18 am

    zẩy hả hok có j tôi sẻ up thêm bài viết đúng đề lun okhihihiih cám ơn nh Surprised Smile Surprised Smile Surprised Cool Cool Cool
    khOng tEn
    khOng tEn
    Vỡ lòng


    Tổng số bài gửi : 9
    Reputation : 4
    Join date : 27/01/2010
    Đến từ : tRên nÚi

    bai van chuan bi viet ne 5/3/2010 Empty Re: bai van chuan bi viet ne 5/3/2010

    Bài gửi by khOng tEn Mon Mar 08, 2010 5:13 am

    may box cai nay cho cho' nhai a, deo lam dc thj tot nhat la im lag nha, ngu thj dung ra ve ta day nguy hiem Wink Wink
    bboykid_1213111
    bboykid_1213111
    Nghiệp dư


    Tổng số bài gửi : 59
    Reputation : 0
    Join date : 27/01/2010
    Age : 30
    Đến từ : lớp 11b10 trường THPT Nguyễn Huệ

    bai van chuan bi viet ne 5/3/2010 Empty may ha dat ke tao

    Bài gửi by bboykid_1213111 Wed Mar 10, 2010 5:25 am

    ai cha ke tao day chi tham khao thoi cu
    nua ne



    Xin thưa, những gì tôi sắp phát biểu hẳn mang đậm màu sắc thế học; tôi tự xét không đủ tư cách và trình độ để nói về Phật Pháp mà chính tôi phải là người được nghe chứ không phải là người được nói. Nếu có ý tưởng nào liên hệ đến Phật Pháp, chẳng qua dù sao tôi cũng là một phật tử từng được hưởng ít nhiều Giáo Pháp của đức Thế Tôn, cảm kích mà thốt ra lời, - mong được thông cảm.

    Sau đây là một vài suy nghĩ cá nhân về “Ý nghĩa nhân bản của sự tự học”.

    Thật ra vấn đề tự học không có gì mới lạ. Ở trường thầy cô giáo nào mà chẳng quan tâm nhắc nhở; báo chí từng đăng tải những lời khuyên quý báu của các nhà giáo dục, tiến sĩ, giáo sư… - đã thành công rực rỡ, sáng danh nhờ tự học. Tôi từng phân vân tự hỏi: Ngoài cái giá trị thực dụng của nó là mang lại sự đỗ đạt, thành công và danh vọng, sự tự học còn có ý nghĩa gì khác, không gắn liền với lợi và danh?

    Trước hết, như chúng ta đều biết “Con người là sinh vật thông minh nhất trên hành tinh này”. Khoa học xếp con người đứng đầu loài linh trưởng, tức loài động vật có trí khôn. Trên 2000 năm trước, sách Thượng Thư của Trung Quốc ghi: “Duy nhân vạn vật chi linh, -惟 人 萬 物 之 靈, - người là giống tinh khôn nhất trong muôn vật.” Đức Thế Tôn dạy rằng “Có được thân người là khó, - nhân thân nan đắc, - 人 身 難 得”.

    Một đặc tính nổi bật nơi con người là biết bắt chước hay học theo. Có thể nói: “Tự học là thuộc tính của trí tuệ gắn liền với bản năng sinh tồn”, mà ngay trong giới động vật cấp thấp cũng thấy biểu hiện khả năng này:

    - Con chim mẹ làm tổ trên cao, đến khi chim con đủ lông cánh, chim mẹ tập cho chúng bay, nếu chim con không tự học theo cách vỗ cánh của chim mẹ thì làm sao biết bay, mẹ chúng đâu có cưỡng chế giáo dục như con người. Mẹ chúng chỉ dùng thân giáo, và tuyệt nhiên không áp đặt bằng kỷ luật. Trường hợp sớm mất cha mẹ, mà nếu chưa chết vì đói khát, con con cũng tự lực hành động theo bản năng, hoặc học theo bầy đàn để sinh tồn. Khi viết đến đây, tôi bỗng nhớ lại một bức tranh vui, đối với tôi có ý vị của một chuyện ngụ ngôn hay một lời dụ.

    Tranh vẽ một đàn chim con tập bay theo mẹ từ cái tổ trên cây cao. Có một chú chim con run rẩy không dám bay, nhưng tình thế buộc nó phải đáp xuống bên kia, nó bèn tuột xuống thân cây, rốt cuộc nó cũng “đáo bỉ địa”, - sang bên kia theo đàn một cách an toàn. Tôi thú vị liên tưởng: Học theo là tốt nhưng không tự biết mình, không tự lượng sức là nguy.

    Còn nơi con người?

    -- Trẻ con hay bắt chước người lớn, dù có khi bị cấm.

    -- Có những em bé nghèo khổ, mồ côi sống lang thang nếu chúng không tự lực tự cường, không tự tìm cách học hỏi thì làm sao sống nổi.

    Triết gia Hy Lạp thời cổ đại ARISTOTLE cho rằng “Bản tính con người vốn hiếu tri, – All men by nature desire to know.” Triết gia Anh thời cận đại Francis BACON nói “Tri thức tự nó là sức mạnh, - Knowledge itself is power.”

    -- Từ ngàn xưa, “tổ chức học”, tức “tổ chức giáo dục” đã trở thành định chế xã hội. Ngày nay, nước nào cũng đầu tư rất nhiều cho giáo dục; gia đình nào cũng tiêu hao tiền của cho sự học của con em. Trong bối cảnh như vậy, sự học buộc phải có giá trị thực dụng mang tính xã hội. Và sự tự học tất nhiên phải gắn liền với giá trị thực dụng đó.

    Có thể đặt câu hỏi cho Tăng-Ni sinh của chúng ta: “Giả sử quý vị không đến trường để nâng cao tri thức, và có thể “tiến thân” bằng con đường học hành, thi cử, - chẳng hạn sẽ đỗ vào Học viện Phật giáo, đi du học, đỗ tiến sĩ, làm giảng sư v.v…, thì liệu ở chùa, ở trú xứ quý vị có nhu cầu tự học, tự tìm phương cách nâng cao trình độ, hoặc để khắc phục những khiếm khuyết nào đó của bản thân? Và sư phụ của quý vị có tạo điều kiện, hướng dẫn quý vị tự học, - nếu việc đó không gắn liền với nhiệm vụ ở trường lớp, gắn liền với thi cử?

    Trong thế giới mà kinh tế không tương xướng với sự gia tăng dân số và sự hưởng thụ xa hoa của một bộ phận giàu có, quyền thế tham lam, thì sự học chủ yếu vẫn là nhằm trang bị cho mỗi cá nhân cái năng lực tranh sống và cầu danh; nói như người xưa: “tranh danh đoạt lợi”. Tình người ngày càng mờ nhạt, đạo đức ngày càng suy vi! --- Tôi đã rất xúc động và chua xót khi đọc mấy dòng sau đây:

    “Trong cái xã hội hiện nay chúng ta buộc phải sống, xã hội xây dựng trên sự đối kháng giai cấp và sự thống trị giai cấp, khả năng có được những tình cảm thuần túy con người trong quan hệ của chúng ta đối với đồng loại vốn đã không còn được bao nhiêu nữa rồi, vậy chúng ta không có chút lý do nào để làm cho khả năng đó càng giảm bớt đi hơn nữa, bằng cách nâng những tình cảm ấy lên địa vị của một tôn giáo”, -- đó là lời của Ăng-ghen. (1)

    Thử nghĩ, làm sao “có được những tình cảm thuần túy con người trong mối quan hệ với đồng loại” khi mà hố ngăn cách giữa giàu và nghèo ngày càng sâu rộng; và cái tâm lý ham danh, ham lợi, ham quyền lực, ham hưởng thụ là phổ cập. Người xưa từng nói: “Hai người cùng lo một việc thường thương yêu nhau, hai người cùng ham thích một việc thường ganh ghét nhau.”

    Xét cho cùng, chỉ có người xuất gia tu hành chân chính, và ai thật sự trọng nghĩa khinh tài mới mong giữ được tình người. Nhưng biết thế nào là tình người thuần túy chẳng phải dễ, -- phải học, phải quán, và bản thân phải tự chứng nghiệm.

    Đâu phải chỉ tìm hiểu, quan sát đối tượng bên ngoài, - như học toán, học sinh ngữ, học giáo lý v.v… mới gọi là học. Trong đạo Phật có từ ngữ “tự quán chiếu, - 自 觀 照”, Nho giáo có câu “Ngô nhật tam tỉnh ngô thân, - 吾 日 三 省 吾 身, - mỗi ngày tôi tự phản tỉnh ba điều về mình”, triết gia Socrates khuyên “Hãy tự biết mình”, trong Tâm Lý Học cổ điển, phương pháp nghiên cứu ý thức quan trọng nhất là phương pháp “nội quan – introspection”.

    Có một sự kiện đáng làm cho ta suy gẫm: Trong đại hội tôn giáo hoàn cầu tổ chức tại Chicago - Mỹ, năm 1993, người ta có trình chiếu cuốn phim “Lời cảnh báo của bậc Huynh Trưởng, - Elder Brother’s Warning”, do đoàn phóng viên đài BBC thực hiện, nói về đời sống của dân Kogi, một bộ lạc thiểu số tại Nam Mỹ, sống rất hạnh phúc, nhưng cách ly với thế giới văn minh vật chất của hành tinh này.

    Sau đây là đoạn trích bài thuyết trình của ký giả Alan Ereira:

    “Cách giáo dục thanh niên tại đây cũng hết sức lạ lùng, có một không hai. Khi được khoảng 20 tuổi, thanh niên được gởi đến học hỏi với các bậc trưởng lão trong những túp lều đơn sơ hay một hang đá. Tại đây, họ sẽ được tập ngồi yên, quay mặt vào vách tường trong bảy đến chín năm liền. Họ chỉ nhai một ít lá cây, uống một chút nước và chú tâm suy gẫm về những điều được giảng dạy. Mỗi ngày vào giờ giấc nhất định, các bậc trưởng lão có nhiệm vụ hướng dẫn sẽ bước vào trao cho họ một đề tài chi đó để suy gẫm.” – Tôi cho rằng đó là sự tự học chân chính nhất.

    Sự tự học gắn liền với bản chất của con người, do vậy mà nó mang tính nhân bản sâu sắc. Sống ở đời, nếu không có ai dạy cho, con người cũng phải tự học mới có thể ứng xử tình huống một cách thích đáng.

    Xét theo quan điểm tâm lý học và đạo đức học tôi nhận thấy rằng:

    * Người thích tự học thường có lối sống theo lý tính hơn là sống theo cảm tính vốn thường gắn liền với các bản năng; họ nhận ra được cái giá trị của đời sống tinh thần, và mặc nhiên khẳng định sự hiện hữu độc đáo của mình. Nhà triết học kiêm toán học Pháp Descartes nói: “Dubito ergo cogito, cogito ergo sum, - Tôi hoài nghi nghĩa là tôi tư duy; tôi tư duy nghĩa là tôi hiện hữu”. Ta cũng có thể phát biểu na ná: “Tôi tự học nghĩa là tôi tư duy; tôi tư duy nghĩa là tôi hiện hữu”.

    * Người tự học thường có niềm vui trí tuệ nội tại; như Khổng Tử nhận định: “Trí giả lạc, nhân giả thọ, -知 (智) 者 樂, 仁 者 壽, -Người trí thì vui, người nhân từ thì sống lâu, (sống lâu có lẽ nhờ không bị stress)”. Đây là niềm vui lẫn tự hào vì dù muốn dù không nó cũng mang ý nghĩa “vô sư trí, 無 師 智” thế gian.

    * Ai có khả năng tự học thường tự tin, tri túc và tự trọng. Thi hào Pháp thế kỷ XIX, Alfred de Musset nói một câu đầy ý vị:

    “Cái ly của tôi không lớn, nhưng tôi uống bằng cái ly của tôi.-

    Mon verre n’est pas grand, mais je bois dans mon verre”.

    * Người tự học vì nhu cầu trí tuệ biết tự đánh giá mình nên tự chủ, dễ nhận ra rằng ‘càng học càng thấy mình dốt’ cho nên thường khiêm tốn.

    Socrates, triết gia thời cổ đại, được phương Tây kính trọng như người Á Đông kính trọng Khổng Tử. Học giả Trung Hoa Lương Khải Siêu kể rằng, tại Nhật Bản, trong đền thờ các bậc Thánh Triết của nhân loại, người ta thờ trên hết là Thích Ca, kế đến là Khổng Tử, kế đến là Socrates, - người đã nói câu nói bất hủ: “Tất cả những gì tôi biết, ấy là tôi không biết gì hết – All I know is that I know nothing.” Về câu danh ngôn này, hồi còn là học sinh – sinh viên, tôi từng phân vân và cho rằng Socrates quá khiêm tốn, bậc như ông mà nói “không biết gì hết”, thật là khó hiểu; thiếu thành thực chăng, hay là như người đời nói “quá khiêm tốn cũng là một cách tự cao”?

    Về sau tôi tìm hiểu Phật Pháp, hiểu được ý nghĩa của từ ngữ “Chánh biến tri- 正 遍 知”, - chỉ cái biết tận cùng rốt ráo của đức Phật:

    Vũ Trụ Càn Khôn không có chỗ nào không soi sáng tận cùng;

    Sắc Không Tướng Tánh không có gì không biết rốt ráo như thị.

    宇 宙 乾 坤 莫 非 盡 照 , 色 空 相 性 無 不 了 然

    Vũ Trụ Càn Khôn mạc phi tận chiếu;

    Sắc Không Tướng Tánh vô bất liễu nhiên.

    Và nhờ vậy mà tôi không còn thắc mắc về sự khiêm tốn chân thành của Socrates “Biết thì nói mình biết, không biết nói mình không biết, - Tri vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả, - 知 為 知 之, 不 知 為 不 知, 是 知 者”, - nên càng kính phục ông.

    Nhà bác học Anh Isaac Newton vĩ đại như thế, - trong từ điển Larousse Pháp ghi: “Ông đã trở thành bất tử nhờ khám phá ra các định luật hấp dẫn của vũ trụ và sự phân tích ánh sáng”, vậy mà tri thức vật lý vũ trụ của ông -- từng được xem là đỉnh cao nhất của tri thức khoa học – đã phải nhường chỗ cho “Thuyết tương đối” của Albert Einstein. Và Einstein còn vĩ đại hơn nữa mà cho đến khi chết vẫn chưa hoàn thành Lý Thuyết Đại Thống Nhất – Grand Unification Theory, - tức lý thuyết thống nhất các quy luật vật lý điều khiển toàn thể vũ trụ.

    Các nhà khoa học hiện đại đang cố gắng thực hiện ý tưởng này của Einstein. Vậy thì xin hỏi có nhà tư tưởng nào, nhà triết học nào – mà triết học vốn dựa vào những thành tựu của các khoa học cụ thể, nhiều khi chỗ dựa đó chủ yếu là những thành tựu của Vật Lý Học – dám áp đặt tri kiến của mình lên nhân loại? Giả sử có người làm như vậy, liệu chúng ta có nhắm mắt tin theo? -- hay cho là ‘đại chủ quan’.

    Tự học để tự “giải ngu”, “giải hoặc” ngõ hầu khỏi bị người mê hoặc và không mê hoặc người, - “Trí giả bất hoặc, - 知 (智) 者 不 惑”. Nhưng chúng ta không nhầm lẫn Trí Tuệ Bát Nhã trong phương châm “Duy tuệ thị nghiệp, - 惟 慧 是 業” với “Thế trí biện thông, - 世 智 辯 通” của một số nhà khoa bảng, giảng sư, giáo thọ v.v… Lại càng không nên nhầm lẫn với cái kiến thức thông tin dữ kiện mênh mông như biển trên mạng internet, - mà máy tính có thể tích lũy nhiều hơn bộ óc con người; và robot thông minh có thể ứng dụng nó rất hiệu quả, có khi còn chính xác hơn con người.

    Mọi tri thức từ ngoài vào phải được tinh lọc.

    Nếu không có khả năng tự tu, tự học, tự quán chiếu thì làm sao biết tinh lọc?

    Nguyên tắc sư phạm “thầy chủ đạo, trò chủ động” được xem là tiên tiến, đang được áp dụng trong dạy và học hiện nay, đã được Khổng Tử dùng cách đây trên 2000 năm. Khổng tử nói: “Kẻ nào không phấn phát tìm hiểu thì ta không giảng cho, không rán lên để phát biểu ý kiến thì ta không khai phát cho, ta nêu ra một góc cạnh (của vấn đề) mà không tự suy nghĩ tìm ra ba góc kia, thì ta không dạy cho nữa.” (Bất phẫn bất khải, bất phỉ bất phát, cử nhất ngung bất dĩ tam ngung phản, tắc bất phục dã - Luận Ngữ, - 不 憤 不 啟, 不 悱 不 發, 舉 一 隅 不 以 三 隅 反, 則 不 復 也 – 論 語).

    Đồng thời với Khổng Tử, ở phương Tây có triết gia Socrates cho rằng trong mỗi con người vốn có sẵn ý tưởng. Dạy không phải là đưa ý tưởng từ nơi mình sang người khác. Ông tự nhận là đã dùng phương pháp “đỡ đẻ” của “bà mụ”, giúp cho đứa con sẵn có trong lòng mẹ sinh ra. Khi dạy ai, ông đi từ câu hỏi này sang câu hỏi khác, kích thích người ta suy nghĩ và trả lời, cuối cùng người học hiểu ra bài học. Tương truyền, bằng lối dạy này, Socrates đã giúp cho một học sinh tự mình chứng minh được một bài toán hình học sơ cấp.

    Thi sĩ Térence thời cổ đại có một câu bất hủ: “Tôi là người, tất cả những gì thuộc về con người không phải là không quan hệ đến tôi” Nguyên tiếng La Tinh là: “Homo sum, et humani nihil a me alienum puto”.

    Tôi suy niệm, nếu có một vị Phật hay vị Bồ-tát từ cõi trời nào đó hóa thân làm người để cứu độ chúng sinh, Ngài hẳn mang trái tim người còn nhạy cảm hơn tim người của chúng ta hiện nay, - vì sao? – Vì chúng ta đang dần dần trở nên “vô cảm”, mà vô cảm thì không thể ứng. Không cảm ứng thì dù có linh cách mấy cũng không cứu được. Trong kinh Lăng Nghiêm có ghi chép: Đức Bồ-tát Quán Thế Âm bạch Phật rằng: “ Nếu có A-tu-la muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân A-tu-la, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho họ được thành tựu.” -- Nếu A-tu-la không thành tâm cầu giải thoát, thì Bồ-tát đâu ứng hiện để cứu độ!

    Tôi hay dùng một phương cách giản dị để theo dõi, đánh giá lòng từ bi của mình, và khi thật sự nhận ra, bao lần tôi cảm thấy lo buồn vì thấy lòng từ bi của mình đáng liệt vào hạng gần bét!

    Số là có một câu triết lý tôi biết từ hồi còn trẻ, tôi cho rằng rất hay và vận dụng, câu đó là: “Về sự biểu hiện lòng nhân ái, tình cảm đầu tiên là quý nhất.” Chúng ta thường nói về từ bi, bác ái, đó là điều tốt, nhưng cái căn bản nhất là “cảm ứng tự nhiên ngay từ ban đầu” ta có không? -- Trước một nỗi khổ đau cực độ của người khác, nếu không phải là cha mẹ, bà con ruột thịt, bạn bè chí thân, sư phụ hoặc huynh đệ mình … thì lòng thương xót, lòng từ bi chỉ xuất hiện sau khi suy lý, dù sự suy lý chỉ can thiệp trong một vài sát-na. Mà hễ “chỉ thiên về tu lý thì trì trệ; chỉ thiên về tu trí thì không còn từ bi” (thiên tu lý tắc trệ tịch, thiên tu trí tắc vô bi, - 偏 修 理 則 滯 寂, 偏 修 智 則 無 悲). Tôi không thể tự biện minh bằng những câu như “mọi sự là vô thường”, “đó là do nghiệp báo” …, rằng tôi “biết chế ngự tình cảm”, “sống tự tại” v.v… Nhưng đồng thời tôi cũng không được nhầm lẫn “từ bi” với “bi lụy” hay với “tính đa cảm đa sầu”. Xin được ví von bằng hình tượng: trước một nỗi thống khổ của đồng loại, tim ta phải ‘nhói lên ngay’ như cơn địa chấn mà cường độ Richter chưa đến nỗi gây long trời lở đất hay sóng thần. Muốn được như vậy, ta phải thường xuyên tự phản tỉnh, tự quán chiếu về vấn đề này để nuôi dưỡng “lòng từ bi”.

    Đức Phật dạy rằng: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”.

    Cái học của phàm nhân là cái học tiếp thu từ bên ngoài vào. Càng ngốn những thứ bên ngoài vào thì tâm hồn càng nặng trĩu tri kiến, - nói như câu thơ Huy Cận:

    “Thân quá nặng nên hồn sa xuống thấp”.

    Cái học để giải thoát là cái học phát huy từ bên trong ra, từ bản tâm chân như thanh tịnh hiển lộ ra thành một diệu hữu dưới dạng một con người, - một hiện thân Bồ-tát. Tự quán chiếu là tự học căn bản nhất.

    Không biết mình thì làm sao biết người, giúp người? Ngôn ngữ Việt Nam có những từ ngữ như “cảm hóa”, “cảm động”, “tha thứ”, “xin bạn thông cảm cho tôi”, “tôi rất thông cảm bạn”, “xin hiểu cho hoàn cảnh của tôi”, “tôi rất hiểu hoàn cảnh của bạn” v.v… Một bên kêu gọi lòng từ bi, một bên phát ra lòng từ bi. Nếu hai vật thể không tương ứng thì làm sao mà cảm với thông. ---- Hồi nhỏ tôi cực kỳ sợ ma, bây giờ tôi vẫn còn sợ ma nhưng không cực kỳ. Cứ mỗi lần đi đêm ra ngoài là sợ đến gần loạn trí, hai tay bắt ấn (bây giờ tôi không còn nhớ đã bấm vào ngón tay nào), miệng niệm liên miên như máy: “Nam mô linh cảm Quan Thế Âm Bồ-tát”, hay “Nam mô cảm ứng Quan Thế Âm Bồ-tát”. Lúc bấy giờ tôi nghĩ, nếu niệm đủ “Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn linh cảm Quan Thế Âm Bồ-tát” có lẽ linh nghiệm hơn, nhưng dài quá sợ niệm có khi lộn, (con nít mà), vả lại niệm không được nhiều lần. Lối suy nghĩ trẻ con đó, ngày nay người ta gọi là “lấy số lượng bù chất lượng”.

    Xin thưa, sở dĩ tôi nhắc lại chuyện thời thơ ấu là để nhấn mạnh hai chữ linh cảm, cảm ứng.

    Chữ “thứ - 恕” trong từ ngữ “tha thứ”, “dung thứ” gồm hai phần, phần trên chữ “như – 如” là giống như, phần dưới chữ “tâm – 心” là lòng; “tha thứ” có nghĩa là xem lòng mình như lòng người, xem người với mình như một, có như vậy mới thực sự hóa giải, bao dung được những gì người khác xúc phạm gây đau khổ cho mình; bằng không thì thái độ hay lời nói tha thứ chỉ là hình thức, - hoặc do tình thế bắt buộc, kiểu như nói “không tha thì sợ nó thù oán”, -- hoặc để được khen là rộng lượng.

    Trên thế gian này, có tôn giáo nào? chủ thuyết nào? dạy cho loài người những lời đại trí đại bi, như đức Thế Tôn đã dạy chúng ta:

    “Đừng tin điều gì
    chỉ vì nghe người ta nói như thế

    Đừng tin vào các truyền thống
    chỉ vì chúng đã được lưu truyền qua nhiều đời

    Đừng tin điều gì
    chỉ vì đó là dư luận trong quần chúng

    Đừng tin điều gì
    chỉ vì thấy nó được ghi chép
    trong kinh điển của tôn giáo mình

    Đừng tin điều gì chỉ vì căn cứ vào uy tín
    của các bậc thầy hay tiền bối của mình.

    Nhưng sau khi quán sát và phân tích,
    thấy điều gì phù hợp với lý trí
    và đưa đến sự tốt lành,
    đem lại lợi ích cho cá nhân và cho tất cả;
    hãy chấp nhận điều đó và thực hành theo nó”.

    - Kinh Tăng Nhất A Hàm – (2)


    Kính lạy
    Đấng Đại Từ Đại Bi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác

    Ngài đã dạy chúng con “ Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”.

    Ngài đã chỉ cho chúng con biết hai thứ quý báu nhất trên đời là TRÍ TUỆ và TỰ DO.

    Kính bạch Ngài, có những cộng đồng nhân loại đang sống tủi nhục vì mất tự do, hay sống trong cái tự do trên giấy tờ chữ nghĩa; đang quằn quại trong cảnh thịt rơi máu đổ vì các tà thuyết vô minh. Chúng con xin nguyện tinh tấn tu học, nỗ lực “tự tu, tự học, tự giác”, ngõ hầu có thể giúp tha nhân cùng giác ngộ.

    Nguyện cầu hành tinh động loạn tràn ngập khổ đau này sớm trở thành một thế giới hạnh phúc an lành: MỘT PHÁP GIỚI DIỆU HỮU TRANG NGHIÊM THANH TỊNH.

    Sponsored content


    bai van chuan bi viet ne 5/3/2010 Empty Re: bai van chuan bi viet ne 5/3/2010

    Bài gửi by Sponsored content


      Hôm nay: Sun May 19, 2024 3:09 pm